Friday, February 22, 2019

Sách Hòa bình phát triển hợp tác | Lý Bằng ngoại sự nhật ký

Ngày 4/1/2008, trang mạng Nhân dân Bắc Kinh giới thiệu tác phẩm mới của Lý Bằng «Hòa bình phát triển hợp tác - Lý Bằng ngoại sự nhật ký», sách do Nhà xuất bản Tân Hoa phát hành trên cả nước tại các tiệm sách Tân Hoa. Quyển sách này thuật lại toàn bộ quá trình tham gia công tác đối ngoại của Lý Bằng với vai trò Phó thủ tướng, thay mặt Thủ tướng, Thủ tướng,... trong gần 20 năm kể từ tháng 6/1983 đến tháng 3/2003. Cuốn sách có nội dung phong phú, là tư liệu lịch sử và văn hiến có giá trị. Sách chia hai quyển Thượng Hạ gần 1,000 chương, trong sách thu nhập hơn 230 bức ảnh chụp, tuyệt đại đa số là lần đầu công khai phát biểu.




Quyển sách không tận lực công bố ra ánh sáng cái gọi là "Nội tình", "Bí văn", nhưng cũng không tránh né những vấn đề nhạy cảm, như liên quan đến "Đài độc"(台独), "Tàng độc"(藏独), "Đông đột"(东突), các loại vấn đề đấu tranh ngoại giao, giải quyết tranh chấp biên giới, xử lý sự kiện "Trung Mỹ Nam Hải Chàng Cơ" (中美南海撞机), trong sách đều có ghi lại theo từng mức khác nhau hay có liên quan.

Quyển sách này là cuốn thứ sáu trong bộ sách nhật ký của Lý Bằng đã xuất bản là: [1] Tam Hạp nhật ký, [2] Điện hạt nhân nhật ký, [3] Điện lực nhật ký, [4] Nhân đại nhật ký, [5] Kinh tế nhật ký.

(Lược dịch lời giới thiệu sách Hòa bình phát triển hợp tác tại đây (tiếng Trung))


Trích phần liên quan đến Hội nghị Thành Đô:

[Năm 1986]

Ngày 26 tháng 12, Thứ Sáu, trời âm u, có mưa

Tại Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam [ĐCSVN], Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, thay cho nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời hồi tháng 7.

[Năm 1989]

Ngày 26 tháng 8, Thứ Bảy, trời âm u, có mưa

Hôm nay Việt Nam tuyên bố đã “rút toàn bộ quân đội” từ Campuchia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề Campuchia, cũng quét sạch trở ngại cho việc bình thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.

Bước ngoặt trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam — Hội nghị Thành Đô

[Năm 1990]

Ngày 6 tháng 6, Thứ Tư, trời hửng.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước, hai đảng và mong muốn sớm đi thăm Trung Quốc.

Ngày 26 tháng 8, Chủ Nhật, trời âm u có mưa.

Tôi nói với đồng chí Giang Trạch Dân về việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam [ĐCSVN] Nguyễn Văn Linh và những người lãnh đạo chủ yếu phía Việt Nam đến thăm Trung Quốc với tính chất nội bộ, đồng chí Giang Trạch Dân tỏ ý hoàn toàn tán thành.

Ngày 27 tháng 8, Thứ Hai, trời mưa.

Tôi đã báo cáo đồng chí Đặng Tiểu Bình về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến Nguyễn Văn Linh. Xét thấy Á Vận Hội sắp cử hành tại Bắc Kinh, mà lần gặp gỡ này bàn đến việc bình thường hóa quan hệ hai nước Trung-Việt, là chuyện trọng đại, để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm thu xếp tại Thành Đô.

Ngày 30 tháng 8, Thứ Năm, trời hửng.

Việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm với Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, đã gửi lời mời cho phía Việt Nam. Giờ đây hãy xem Việt Nam trả lời thế nào.

Ngày 2 tháng 9, Chủ Nhật, trời hửng.

Ba giờ rưỡi chiều, tôi đáp chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi đi ô tô, sau 20 phút đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chuyên cơ khác đến Thành Đô sau tôi nửa giờ. Buổi tối từ 8 giờ rưỡi đến 11 giờ, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai.

Ngày 3 tháng 9, Thứ Hai, Thành Đô, trời hửng.

Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí tiếp tục nghiên cứu phương châm hội đàm với phía Việt Nam chiều nay.

Buổi chiều khoảng 2 giờ, Tổng Bí thư Trung ương ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn TƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến Nhà khách Kim Ngưu. Giang Trạch Dân và tôi đón họ tại nhà trệt số 1. Nguyễn Văn Linh mặc âu phục màu cà phê, có phong thái học giả. Đỗ Mười còn khỏe mạnh, tóc bạc phơ, mặc âu phục màu lam. Hai người này đều ở độ tuổi 73-74, còn Phạm Văn Đồng hai mắt bị đục thủy tinh thể, thị lực rất kém, mặc bộ đại cán màu lam, giống cán bộ lão thành Trung Quốc.

Buổi chiều, hội đàm bắt đầu, trước tiên Nguyễn Văn Linh phát biểu một bài dài. Tuy đã tỏ ý muốn giải quyết thật nhanh vấn đề Campuchia và nói thành lập Hội đồng Tối cao Campuchia là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, không nên loại bỏ bất cứ bên nào, nhưng lại tỏ ý không muốn can thiệp vào việc nội bộ của Campuchia. Xem ra trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh chỉ muốn tỏ thái độ về nguyên tắc, mà đặt trọng điểm vào mặt bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.

Hội đàm kéo dài một mạch đến 8 giờ tối. 8 giờ rưỡi mới bắt đầu tiệc chiêu đãi tối. Trên bàn ăn, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân từng người làm việc với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười.

Ngày 4 tháng 9, Thứ Ba, trời âm u.

Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lãnh đạo Việt Nam. Đến giờ này, nên nói là các vấn đề hội nghị nêu ra đã đạt được sự đồng thuận tương đối trọn vẹn, quyết định dự thảo biên bản hội nghị.

Hai giờ rưỡi chiều, hai bên Trung Quốc-Việt Nam làm lễ ký biên bản ở nhà trệt số Một nhà khách Kim Ngưu, Tổng Bí thư và Thủ tướng mỗi bên đều ký. Đây là bước ngoặt có tính lịch sử trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Ngay tại lễ ký, đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu
 [Tạm dịch: Qua hoạn nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Đây là câu thơ của Lỗ Tấn.[1] Các đồng chí Việt Nam tỏ ý vui mừng với việc tặng thơ này.

4 giờ chiều, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, Khoảng 6 giờ 10 đến nơi.

Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội VII

[Năm 1991]

Ngày 29 tháng 6, Thứ Bảy.

Đại hội VII ĐCSVN bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng là Cố vấn. Tinh thần cơ bản của Đại hội VII ĐCSVN là kiên trì chủ nghĩa xã hội, cải cách kinh tế, chủ trương hữu nghị Việt Nam-Liên Xô, Việt Nam-Trung Quốc. Tinh thần này có lợi cho việc cải thiện quan hệ Trung-Việt.

Ngày 30 tháng 7, Thứ Ba, Bắc Kinh, trời hửng.

Buổi chiều tôi hội kiến với Đại biểu đặc biệt Trung ương ĐCSVN Lê Đức Anh và Hồng Hà. Họ yêu cầu tổ chức cuộc gặp cấp cao Trung-Việt. Tôi nói là để cho nhân dân hai nước có chuẩn bị, để các nước khác trong ASEAN không đến nỗi có lo ngại, Trung Quốc-Việt Nam trước tiên nên tiến hành gặp gỡ cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Ngoại giao. Còn nói về  gặp gỡ cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng trên nguyên tắc không có vấn đề gì. Ngày mai Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ chính thức trả lời họ. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế Trung-Việt, có thể trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, các đơn vị đối tác của hai bên sẽ bàn bạc giải quyết, Trung Quốc đều có thái độ tích cực đối với các vấn đề nối lại thương mại, bưu chính, hàng không, quyết toán ngân hàng, khôi phục giao thông trên bộ.

Thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam

Ngày 5 tháng 11, Thứ Ba, trời hửng.

5 giờ chiều, đồng chí Giang Trạch Dân và tôi làm nghi thức đón Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc tại quảng trường Đông Môn bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân. Tiếp đó chúng tôi hội đàm. Trên vấn đề Đài Loan, Đỗ Mười có thái độ rõ ràng. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, sau khi mối quan hệ hai nước trải qua một khúc quanh co, hôm nay người lãnh đạo hai nước Trung-Việt có thể ngồi với nhau làm cuộc gặp gỡ cấp cao, điều này có ý nghĩa quan trọng. Đây là cuộc gặp kết thúc quá khứ, mở ra tương lai, đánh dấu sự bình thường hóa mối quan hệ hai nước, nó ắt sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước. Đỗ Mười nói, việc bình thường hóa mối quan hệ Việt-Trung phù hợp nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, cũng có lợi cho hòa bình và ổn định khu vực này và thế giới. Tiếp đó vào tiệc chiêu đãi.

Ngày 6 tháng 11, Thứ Tư, trời hửng.

Buổi chiều, tôi hội đàm với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, không khí hội đàm rất tốt. Trước hết tôi nói, sáng nay Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành cuộc hội đàm rất tốt, hai bên đã gắng sức trao đổi mọi ý kiến. Võ Văn Kiệt có thái độ đúng trên vấn đề Đài Loan. Trong hội đàm, tôi đã nêu ra các vấn đề nợ, biên giới, nạn dân v.v… Hai bên đồng ý sau này sẽ bàn lại. Về việc Việt Nam đề xuất vay tiền cho các dự án mới, tôi nhận lời trước hết sẽ khảo sát các dự án của Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nói hiệp định giải quyết chính trị toàn diện vấn đề Campuchia đã ký tại Paris, việc thi hành hiệp định này còn cần tới sự tiếp tục cố gắng của các bên.

Ngày 7 tháng 11, Thứ Năm, trời hửng.

Buổi chiều, hiệp định thương mại Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước được ký tại Nhà khách quốc tế ở Điếu Ngư Đài. Lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước dự lễ ký kết. Sau đó tôi và đồng chí Giang Trạch Dân nói lời tạm biệt với Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm Quảng Châu, Thâm Quyến.

-- Nguồn Trích Hòa Bình Phát Triển Hợp Tác (pdf, tiếng Trung Quốc) - Tác giả: Lý Bằng | Biên dịch: Nguyên Hải

Sách Hồi ức và suy nghĩ | Trần Quang Cơ

Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ (pdf) của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003)  chưa được xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác giả cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.

Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé ký 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lý do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông mất ngày 25/06/2015 tại Hà Nội.


Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990). Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn - trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng - cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh - tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)

Trong cuốn hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất quan trọng nói lên sự thật về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng thời về những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 30-04-1975 đến hôm nay, sự kiện bí mật Hội nghị Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một bí mật chưa công bố và được đề cập rất sơ sài của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc.

--- Trích lời giới thiệu của nhà báo Trần Quang Thành.

SGK Địa lý lớp 9 của Hà Nội năm 1974 ghi nhận quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Trung Quốc

Một bằng chứng do Bộ ngoại giao Trung Quốc cung cấp khẳng định sách giáo khoa Địa lý lớp 9 do NXB Giáo dục Hà Nội xuất bản năm 1974 ghi nhận quần đảo Trường sa và Hoàng sa là của Trung Quốc. Trích dẫn trang 4:

"Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức <<trường thành>> bảo vệ lục địa Trung quốc (Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc, của Viễn đông và miền Tây Thái bình dương)"
Bìa sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập - NXB Giáo Dục - Hà Nội 1974

Trang 3 sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập

Trang 4 sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập
Nguồn: Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China

Thư tán thành bản Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày 04/09/1958

Thư tán thành bản Tuyên bố chủ quyền của nước CHNDTH về hải phận ngày 04/09/1958.

THỦ TƯỚNG PHỦ
NƯỚC VIỆT NAM DÂN-CHỦ CỘNG-HÒA

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Hà-nội, ngày 15 tháng 9 năm 1958.
(đã ký và đóng dấu)
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa

Kính gởi:
Đồng chí CHU ÂN LAI
Tổng lý Quốc vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa tại BẮC KINH.

Bảng dịch tiếng Anh

Nguồn: Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China

Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày 04/09/1958

Bảng đệ trình của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về lãnh hải lên Liên hợp quốc được công bố vào ngày 04/09/1958. Declaration of the Government of the People's Republic of China on China's Territorial Sea published on 4 September 1958.
Declaration of the Government of the People's Republic of China on China's Territorial Sea published on 4 September 1958.

Bảng tuyên bố của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) về lãnh hải gởi Liên hợp quốc được công bố vào ngày 04/09/1958.

Mục 1:
Bề ngang của lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý. Điều khoản dự liệu này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của nước CHNDTH bao gồm lục địa và các bờ biển đảo, cũng như Đài Loan và các đảo xung quanh, quần đảo Penghu (Wiki: quần đảo Bành Hồ), quần đảo Dongsha (Wiki: quần đảo Đông Sa), quần đảo Xisha (Wiki: quần đảo Hoàng Sa), quẩn đảo Zongsha (Wiki: quần đảo Trung sa), quần đảo Nansha (Wiki: quần đảo Trường Sa), và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc bị tách khỏi đất liền và bờ biển đảo bởi biển cao.

Mục 2:
"(...)Vùng nước (biển) nằm trong đường ranh giới, bao gồm Bohai Bay (Wiki: Vịnh Bột Hải) và Qiongzhou Straits (Wiki: Eo biển Quỳnh Châu) là các vùng biển nội địa của Trung Quốc. Các đảo nằm bên trong ranh giới, bao gồm đảo Dongyin (Wiki: đảo Đông Dẫn thuộc quần đảo Mã Tổ, eo biển Đài Loan), đảo Gaodeng (thuộc quần đảo Mã Tổ), quần đảo Mazu, quần đảo Baiquan (Wiki: quần đảo Bạch Khuyển/ Chó trắng), đảo Wuqiu (Wiki: đảo Ô Khâu), quần đảo Jinmen Lớn và Nhỏ (Wiki: quần đảo Kim Khâu), đảo Dadan (Wiki: đảo Đại Đảm), đảo Erdan (Wiki: đảo Nhị Đảm) và đảo Dongding (Wiki: đảo Đông Đĩnh) là các đảo của vùng biển nội địa của Trung Quốc"


Nguồn: Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China