Friday, June 7, 2019

Vì sao một bộ phận dân Campuchia ghét Việt Nam? | Nguyễn Phương Mai

Ảnh: một cuộc biểu tình chống Việt Nam ở Phnompenh (Campuchia) tháng 10/2014

Cách đây khá lâu, tôi có hân hạnh được đọc bản thảo cuốn "When broken glass floats" của Chanrithy Him trước khi nó được xuất bản và trở thành một cuốn sách bán chạy khắp thế giới. Tôi đọc say mê, tím tái cả thân thể bởi câu chuyện rùng rợn của một đứa trẻ sống dưới chế độ Khơ-me Đỏ. Chỉ đến khi đọc tới câu cuối cùng, tôi mới như bị dội một xô nước lạnh vào mặt. Chanrithy nói rằng, cô:
"… thoát chết trong gang tấc và trái tim cô gái nhỏ thắt lại, bởi cùng với nỗi khổ hạnh đã qua, cô nhìn thấy đất nước Campuchia đang chuẩn bị chìm trong bóng tối của 1 cuộc xâm lược mới, từ một kẻ thù truyền kiếp: Việt Nam".

Những cuộc biểu tình phản đối Việt Nam, những cuộc đụng độ và bài dân Việt ở Campuchia đã diễn ra từ nhiều năm nay khi chính quyền (được cho là thân Việt Nam) của Thủ tướng Hun Sen thắng cử. Đỉnh điểm vào ngày 6/6/2014, Tham tán ĐSQ Việt Nam Trần Văn Thông tuyên bố rằng miền Nam Việt Nam đã chính thức thuộc về VN từ rất lâu, trước cả khi Pháp chiếm đóng. Bắt đầu từ tuyên bố này, cờ Việt ở Campuchia bị đốt, người Việt bị thanh trừng, lãnh đạo đảng đối lập liên tục gọi người Việt ở Cam là "yuon" — đọc là "Duồn", tức man rợ [1], một bộ phận dân Cam biểu tình đòi lại vùng Nam Bộ Tây Ninh. Ngày 9/10, Cambodia Daily đưa tin người biểu tình đốt tiền VN và dọa đốt sứ quán… Những sự việc này, có lẽ chúng ta đều không biết.

"Nước mày đúng là chữ S, mà chữ S là "Shit"… kứt ý!" – một bình luận vô văn hóa của 1 người Cam trên 1 facebook cá nhân mà tôi quen. Hiển nhiên, comment này không thể khiến tôi ngồi yên. Một mặt, tôi căm ghét kẻ đã dám xúc phạm quê hương mình, nhưng mặt khác, tôi thấy mình phải có trách nhiệm đi tìm bằng được những lý giải cho nỗi căm ghét đó. Lịch sử ngày bé tôi học chỉ thấy nói người Cam biết ơn người Việt, đâu có nói đến sự căm hận đến mức như vậy?

Một bài viết trên Phnompenh Post ngày 6/9 dẫn lời 1 thanh niên Cam "17/20 người trong số bạn bè của tôi ghét VN, và cho rằng VN có âm mưu mờ ám" [2]… Bài báo cũng nêu ra thực trạng của nhiều người Việt ở Cam, không có quốc tịch, con cái không được đến trường, không được mua đất, chủ yếu sống trên thuyền với nghề sông nước.

Lịch sử (chính thống) luôn được viết bằng ngòi bút của kẻ chiến thắng — W. Churchill đã từng nói như vậy. Chính vì thế, để trả lời cho câu hỏi tại sao một bộ phận dân Cam ghét VN, tôi quyết định chọn đọc những tư liệu của bên thứ ba, tức là những tư liệu được viết bởi những tác giả không phải người Việt hoặc Cam và ít có liên quan nhất đến cả Việt Nam và Campuchia. Tất nhiên, không tài liệu nào hoàn toàn khách quan cả, nhưng "không Việt không Cam" thì sẽ dễ có khả năng khách quan hơn. Sau đây là tóm tắt một cách sơ lược nhất.

Vương quốc Khmer nằm kẹp giữa hai láng giềng lớn là Việt Nam & Thái Lan dần dần mất đất từ nhiều lý do khác nhau. Người Khmer xưa có câu: "Cây thốt nốt mọc đến đâu, đất (xưa) của người Cam trải dài đến đó". Sách sử Việt Nam có một cách gọi khác, hào hùng hơn: "mang gươm đi mở cõi". Hẳn nhiên, đây là hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người, một mối quan hệ "cá lớn — cá bé" đặc trưng ở bất kỳ nơi đâu. Đường biên giới của các bộ lạc, thành phố, lãnh thổ, đế chế và nay là quốc gia đã luôn luôn đổi thay dựa vào vị thế mạnh yếu từng thời kỳ của từng xã hội. Lịch sử mà chúng ta gọi là "mang gươm đi mở cõi" thực chất là một quá trình lâu dài và phức tạp của nhiều yếu tố, chứ không chỉ là thanh gươm: di dân, đồng hóa, áp đặt, thỏa hiệp, và cả dùng vũ lực đánh chiếm từ Bắc xuống Nam.

Chính vì vậy, bất kỳ một quốc gia nào cũng nuôi không ít thì nhiều hận thù với các nước láng giềng bởi những hiềm khích không thể tránh khỏi trong quá trình phát triển của lịch sử và xác định biên giới bờ cõi. Đối với người Cam, đế chế Khmer rộng lớn khi xưa bị mất hẳn là một lịch sử đau thương, và điều này có thể khiến chúng ta hiểu tại sao Campuchia chưa bao giờ hết xích mích với người Thái và chưa bao giờ tin tưởng vào người Việt.

Khi Việt Nam với tham vọng thành lập một liên minh chống Pháp trên toàn Đông Dương, đã trực tiếp giúp thành lập Đảng dân tộc cách mạng Campuchia (tiền thân của Đảng Cộng sản Campuchia, tức Khmer Đỏ sau này), thì hai bên trở thành đồng minh thân thiết. Tuy nhiên, đằng sau vỏ bọc đồng minh là niềm uất hận mất nước không bao giờ nguôi, thậm chí biến thành dã tâm tiêu diệt 50 triệu người Việt đến kẻ cuối cùng. Khmer Đỏ cho rằng Việt Nam âm mưu thành lập Khối Đông Dương (Indochina Federation) và dắt mũi các nước khác trong đó có Campuchia. Với hai lý do này, Khmer Đỏ yêu cầu Việt Nam trả lại đất tổ tiên của họ.

Tuy quân số ít hơn nhiều lần, nhưng Khmer Đỏ liên tục thực hiện các cuộc tàn sát đẫm máu dọc biên giới Việt – Cam làm hơn 300.000 người Việt thiệt mạng, bất chấp thiện chí ban đầu của chúng ta. Ngày 17/4/1977, chính phủ VN vẫn còn gửi thông điệp chúc mừng chính quyền Khmer Đỏ sau 2 năm thành lập. Đáp lại lời chúc này, chỉ 2 tuần sau, đúng dịp 30/4, quân Khmer bất ngờ tấn công thẳng vào An Giang và Châu Đốc, giết hại hàng ngàn thường dân. Việt Nam buộc phải đáp trả, chính thức kết thúc mối quan hệ đồng minh (lúc đó) chỉ còn trên danh nghĩa và tiến hành chiến tranh phản kích lật đổ chính quyền Khmer Đỏ bằng vũ lực. Xin hãy nhớ rằng, mối quan hệ của những người anh em cùng ý thức hệ lúc này không đơn giản. Trung Quốc đang đối đầu với Liên Xô trong khi VN là đồng minh của Liên Xô và Khmer Đỏ là đồng minh của TQ.

Lấy cớ Khmer Đỏ phạm tội diệt chủng, quân VN tiến vào giải phóng Campuchia, lật đổ chính quyền của kẻ từng là đồng minh. Nhưng khi ấy, lý do Khmer Đỏ "giết người Việt" không được nhấn mạnh bằng lý do Khmer Đỏ "diệt chủng người Cam". Vì thế, việc VN đưa quân vào Cam được nhấn mạnh là "nghĩa vụ quốc tế", tạo tiền đề cho kế hoạch của VN tại Cam sau này. Tuy nhiên, mọi chuyện không hề dễ dàng. Trước sức tiến công như vũ bão của quân đội nhân dân Việt Nam, chính quyền Polpot sụp đổ chỉ trong 2 tuần. Nhưng thay vì tháo chạy, Khmer Đỏ chuyển sang hình thái chiến tranh du kích và bắt đầu trường kỳ kháng chiến. Để đáp trả, sau khi chiến thắng, VN không ngay lập tức RÚT quân, mà lại dựng nên chính quyền Campuchia thân Việt, khởi đầu cho một giai đoạn hơn 10 năm đóng quân và ảnh hưởng.

Lý do vì sao thì rất nhiều, trong đó quan trọng nhất là ý chí muốn tiêu diệt hoàn toàn tàn quân Khmer Đỏ bởi sự man rợ của chúng chứ không chỉ làm sụp đổ chính quyền cầm quyền Polpot. Xin lưu ý rằng, đến tận năm 92, khi các hiệp định quan trọng đã được ký kết thì Khmer Đỏ vẫn tiếp tục tìm giết người Cam gốc Việt với hy vọng họ sẽ không thể bỏ phiếu bầu cử lập pháp. Theo hồi ký của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, thì bản thân chúng ta sau này cũng cho rằng đây là một sai lầm chiến lược vì đã "dính líu quá sâu và quá lâu vào vấn đề Campuchia". Cũng có ý kiến khác cho rằng VN ban đầu tự vệ và giải phóng Campuchia, sau đó do chạy theo "tham vọng" lớn mà trở thành "sa lầy" ở đây trong một ván cờ của hai nước lớn Trung Quốc và Liên Xô.

Thế nên, trong khi người Việt gọi đây là cuộc giải phóng nước láng giềng anh em và giúp bạn xây dựng đất nước, thì chính bản thân người Cam và hầu hết các tư liệu lịch sử ngoài biên giới VN lại cho rằng đây là cuộc xâm lược (invasion). Khi tôi đến nhà tù S21, nơi trưng bày hàng trăm cái đầu lâu của dân Cam bị giết, thì tại nơi đáng lý phải được xem là tượng đài của lòng biết ơn người Việt này, thì trái lại, trên giấy trắng mực đen và các tấm bản hướng dẫn khách tham quan vẫn tuyên bố Việt Nam "xâm lược" Campuchia.

VẬY TẠI SAO NGƯỜI CAM XEM VN LÀ XÂM LƯỢC DÙ ĐÃ CỨU HỌ THOÁT KHỎI NẠN DIỆT CHỦNG?

Một lý giải cho cách hiểu này là do VN không bó hẹp các hoạt động của mình tại Cam trong phạm vi quân sự để tiêu diệt tàn quân Khmer Đỏ, mà sau đó đã nhúng tay quá sâu vào chính trị, áp đặt ảnh hưởng của mình lên chính trường Campuchia, hoặc có những chính sách thiếu khôn khéo khiến nhiều người Cam cho rằng VN không chỉ kết thúc 1 chế độ diệt chủng mà còn đang lũng đoạn hệ thống chính trị đất nước mình. Ở đây, cần phải phân biệt rõ ràng hai vấn đề này với nhau, vì đây là hai thái độ tình cảm riêng biệt.

Họ mang ơn vì một chuyện (tiêu diệt Khmer Đỏ), nhưng sau đó lại oán hận vì những chuyện hoàn toàn khác (thao túng chính trị + cho là VN chiếm đất).

Chính vì thế, điều ông Trần Quang Cơ viết không hẳn là không có cơ sở. Trong thời kỳ đóng quân trên đất Campuchia, Việt Nam bị dư luận thế giới lên án mạnh mẽ với lý do đã dùng vũ lực chiếm đóng nước khác. Nhiều tư liệu cho rằng các quyết định của chính quyền Campuchia trong thời kỳ này đều phải qua sự kiểm duyệt cuối cùng của VN. Mỗi bộ trưởng Cam đều đi kèm một cố vấn người Việt, chưa kể các cố vấn cho thứ trưởng.

80 nước trên thế giới và Liên Hiệp Quốc công nhận chính quyền Khmer Đỏ là chính quyền duy nhất đại diện cho Campuchia, phủ nhận chính quyền thân VN. Việt Nam không được phép gia nhập nhiều tổ chức quốc tế như IMF; Thụy Điển – một nước từng hết sức ủng hộ VN cũng rút toàn bộ viện trợ; nhiều quốc gia dù CÔNG NHẬN CÔNG TRẠNG của VN trong việc xóa bỏ chế độ man rợ Khmer Đỏ, nhưng lại không tin rằng hành động đó xuất phát từ việc thực sự muốn kết thúc chế độ diệt chủng Polpot. Nhiều nước khác xem việc VN đánh đổ Khmer chỉ là hệ quả phụ của một ván bài chính trị mà VN có thể vừa là người chơi vừa là nạn nhân. Không những vậy, nhiều nhà sử học lại đặt giả thuyết nếu Khmer Đỏ không tràn qua biên giới, tàn sát dã man người Việt thì hai bên vẫn sẽ tiếp tục là đồng minh, cho dù dân Campuchia có thể bị diệt chủng.

Từ những góc nhìn này, Thái Lan – một nước chưa bao giờ cảm thấy thoải mái vì cho rằng VN có tham vọng lớn ở Đông Nam Á, sợ rằng VN sau khi thôn tính Cam sẽ nuốt chửng cả mình, nên đã cưu mang những thành viên thất trận của Khmer Đỏ, cùng khối ASEAN yêu cầu VN lập tức rút quân để người Cam có thể thực hiện một cuộc bỏ phiếu mà không bị ảnh hưởng bởi thế lực nước ngoài. Một số nghiên cứu thậm chí cáo buộc VN vi phạm nhân quyền khi phong tỏa lương thực các vùng do tàn quân Khmer Đỏ chiếm giữ, khiến hệ quả phụ là hơn 600.000 dân Campuchia chết đói [3].

Việt Nam có lẽ sẽ còn trụ lại Campuchia lâu hơn thời gian 10 năm nếu Liên Xô và hệ thống các nước XHCN không sụp đổ. Kết quả của sự đổi chiều này chính là Hội nghị Thành Đô, được tổ chức bí mật và cho đến nay vẫn không hề được công bố. Kết quả, phía TQ một mực yêu cầu sẽ chỉ chấp nhận bình thường hóa quan hệ nếu Việt Nam hoàn toàn rút quân khỏi Campuchia [4].

Sẽ còn mất nhiều thời gian để chúng ta hiểu rằng tại sao 15.000 chiến sĩ Việt Nam hy sinh xương máu ở Campuchia với 30.000 người bị thương mà một bộ phận dân Campuchia lại nhanh chóng chuyển từ biết ơn sang oán thán? Tại sao 5% thiểu số người Cam gốc Việt (phần lớn là dân nghèo làm nghề chài lưới) lại bị một số người bản xứ nhìn nhận như kẻ thù hơn là những người nhập cư đến làm ăn sinh sống? Tại sao Khmer Đỏ gọi Việt Nam là "cá sấu" [5]?

Còn biết bao câu hỏi sẽ còn ám ảnh tôi và những ai thực sự muốn tìm hiểu thấu đáo mọi vấn đề. Tôi muốn hiểu tại sao người Cam chưa bao giờ ghét người Trung Quốc như ghét người Việt, dù TQ từng chống lưng Khmer Đỏ (thậm chí từ trước khi TQ đầu tư hàng tỷ đô la và viện trợ đầy hào phóng cho Cam)? Tại sao chính phủ Campuchia bỏ phiếu phản lại nỗ lực của khối ASEAN trong việc bảo vệ chủ quyền biển Đông chống Trung Quốc tại hội thảo ASEAN 2 năm trước? Tại sao bên cạnh rất nhiều những người Cam yêu VN lại có những người Cam ghét người Việt đến thế? Tại sao cờ Tổ Quốc tôi bị đốt cháy ở 1 đất nước lẽ ra họ (nên) mang ơn ông cha tôi? Tại sao người Việt ở Cam đang ngày đêm lo sợ? Tại sao xương máu của bao người Việt ngã xuống mà vẫn không thể đổi lại được lòng tin và tình bằng hữu của nước láng giềng? Tại sao VN tốn kém sức người sức của đến thế mà đổi lại chỉ là một sự nghi ngờ từ phía (một bộ phận) dân chúng Cam?

Vậy ai sẽ là người thực sự biết ơn chúng ta? Là người dân Cam hay Hoàng gia Cam? Có phải họ tuy biết ơn VN đã cứu thoát khỏi họa diệt chủng nhưng không thể nguôi đi nỗi thù mất nước từ xa xưa? Có phải họ chịu ơn cứu mạng của VN nhưng lại nhanh chóng bị mất lòng tin khi thấy quân VN sau khi đánh đổ chế độ diệt chủng thì không rút đi mà tiếp tục ở lại, thành lập rồi giật dây chính quyền bù nhìn Heng Samrin? Nếu ván bài chính trị này tính sai, thì khi Hun Sen không còn nắm quyền, VN sẽ xử lý ra sao với một Campuchia thân TQ, xử lý ra sao với tình trạng cả phía Nam lẫn phía Bắc bị bủa vây bởi những láng giềng không hữu hảo? Có phải những hận thù này đang được cố tình đổ dầu vào lửa, được các đảng phái chính trị đối lập với Hun Sen ở Cam lợi dụng cho những ván bài chính trị mới, kích động một bộ phận dân chúng tuy nhỏ nhưng hung hăng để tạo phản ứng dây chuyền, và kẻ chịu nạn là những người Cam gốc Việt vô tội?

Hận thù với láng giềng thì hầu như nước nào cũng có. Và tôi tin rằng hận thù nào cũng có thể hóa giải. Trân trọng quá khứ và cởi mở với nhau là điều kiện tiên quyết để tạo nên các mối giao hảo vững bền. Hơn bao giờ hết, quyền lợi của các quốc gia đang được thắt chặt vào nhau.

Mối quan hệ Việt – Cam may mắn chưa đến mức quá nghiêm trọng, nhưng cũng lại phức tạp hơn vì trắng đen không rõ ràng. Một bộ phận người Cam vừa mang ơn chúng ta nhưng cũng vừa oán hận. Các làn sóng nghi ngờ, thậm chí thù hằn đối với người Việt là có thật và đang bị kích động bằng các chiêu bài chính trị. Nhưng tôi tin rằng hai nước hoàn toàn có thể gác lại quá khứ sang một bên, hóa giải ân oán như chúng ta đã từng làm với Nhật, Pháp, Mỹ. Nếu chúng ta có thể tha thứ được cho kẻ thù, tại sao không thể lắng nghe tâm tư của kẻ mình từng cứu nạn? Và để hóa giải thì buộc phải có sự chân thành, phải có thành ý thực sự muốn tìm hiểu tại sao người hàng xóm lại ghét và nghi ngờ tấm chân tình của mình đến thế dù được mình cứu sống. Trước khi mắng họ vô ơn, hãy kiềm chế cơn giận và lắng nghe họ giãi bày.

© Nguyễn Phương Mai

Chú thích & Tài liệu tham khảo:
[1] - Nhiều người Cam gọi Việt là "youn", nhưng một số không hiểu nghĩa. Một cách lý giải khác cho từ này là do chiết xuất từ chữ Yueh theo cách người Tàu gọi người Việt.


[3] - Con số người Cam chết được trích từ tư liệu của cuốn "Cambodia's Curse: The Modern History of a Troubled Land" (Lời nguyền của Campuchia: Lịch sử hiện đại của một mảnh đất đầy trắc trở), tác giả Joel Brinkley.

[4] - Trong cuốn hồi ký, cựu Thứ trưởng Trần Quang Cơ, có nhắc đến: "Kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là "Biên bản tóm tắt" gồm 8 điểm, thì có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước; mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia), còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả."

[5] - Cuốn sách đen (The Black book) của Khmer Đỏ ám chỉ rằng chẳng ai tin con cá sấu, kể cả khi nó rơi nước mắt.

Để viết bài này, tôi đã đọc khá nhiều. Và đương nhiên không có cuốn nào là khách quan tuyệt đối 100% cả. Vấn đề là khách quan đến đâu. Muốn tiến gần đến sự thật do vậy không có cách nào khác là phải tìm đọc từ nhiều nguồn. Dưới đây là một vài cuốn sách mà cá nhân tôi cho là có khá nhiều thông tin cho những ai muốn tìm một góc nhìn khác, hoặc một ý kiến ngoài cuộc về lịch sử của mối quan hệ Việt — Cam. Bạn không nhất thiết phải đồng ý với các tác giả, nhưng đọc để tham khảo, so sánh, và biết các nhà sử học quốc tế nhìn nhận chúng ta như thế nào.

1. "Why Vietnam Invaded Cambodia: Political Culture and the Causes of War" (Tại sao Việt Nam xâm lược Campuchia — Văn hóa chính trị và nguyên nhân của cuộc chiến), tác giả Stephen J. Morris

2. Genocide by Proxy: Cambodian Pawn on a Superpower Chessboard (Con tốt đen Campuchia trong ván cờ của các nước lớn), của tác giả Micheal Haas.

3. A History of Cambodia (Lịch sử Campuchia), của David Chandler

4. Cambodia's Curse: The Modern History of a Troubled Land (Lời nguyền của Campuchia: Lịch sử hiện đại của một mảnh đất nhiều thăng trầm), của Joel Brinkley.

-----------
1. Bạn gọi quá trình VN mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam là gì tùy cá nhân bạn. Ở bài này, tôi chỉ đưa ra hai cách nhìn, một là của lịch sử VN: tức "mở cõi"; hai là của người Cam: mất nước. Bản thân tôi chấp nhận cả hai. Quan điểm của tôi là luôn nhìn lịch sử thông qua những mất mát cũng như vinh quang của cả hai phe.

2. Người Cam đương nhiên biết ơn người Việt, Hun Sen lại càng biết ơn hơn. Đó là sự thật! Thế nên ông ấy mới lên tiếng đính chính là "người Việt không xâm lược, mà là cứu sống Campuchia. Không có người Việt, dân Cam chắc không chỉ dừng lại ở con số hơn 2 triệu người chết dưới bàn tay diệt chủng man rợ của Khmer Đỏ.

3. Tuy nhiên, cùng với sự biết ơn đó là sự oán ghét CHƯA thể nguôi ngoai. Tâm lý người Cam vì vậy rất nhạy cảm, vì họ vừa biết ơn lại mang oán. Thế nên mới có chuyện trong khi chúng ta tưởng họ mang ơn mình thì họ đốt cờ VN. Mối thù này tuy không bùng phát ra ngoài, không phải ai ai cũng mang trong đầu, nhưng nó là mối thù có thật, và nó được các đảng đối lập lợi dụng triệt để để thu hút phiếu bầu.

4. Một số bạn ngang nhiên nói rằng bản chất của người Cam là như thế: họ là lũ VÔ ƠN. Nói thế thì có khác gì những người Trung Quốc mắng VN vô ơn, được TQ giúp cho bao nhiêu để chống Pháp, kháng Mỹ… mà nay lại phản bội họ? Có bao nhiêu người TQ có thể ngồi xuống bình tĩnh lắng nghe người Việt giải thích ngọn ngành? Nếu mình không thể làm được thế với Campuchia thì đừng đòi hỏi TQ phải hiểu tại sao VN nổi giận.

5. Một số bạn bảo sao lại nói ra chuyện này, không có lợi. Tôi cho rằng nhiều người Việt không hề biết một bộ phận dân Campuchia lại có thể ghét mình đến mức này. Nếu phải lựa chọn giữa hai trường hợp: (1) — Sống cạnh một người hàng xóm ghét mình nhưng mình BIẾT TẠI SAO nó ghét mình để mà còn tìm cách hóa giải ân oán, và (2) — Sống cạnh một người hàng xóm ghét mình nhưng minh KHÔNG HỀ BIẾT, lại cứ tưởng nó MANG ƠN mình nhiều lắm. Bạn chọn cách nào?

6. Tuy nhiên, nếu bạn hỏi tôi sẽ làm gì với tư cách cá nhân, thì tôi xin thưa là sẽ gửi tất cả những người bạn Campuchia mình quen biết một lá thư, nói rằng mày biết không, có một ông nhà thơ ở nước tao tên Nguyen Duy nói rằng: "bên nào thắng thì nhân dân cũng bại". Tao hiểu tại sao mày cáu, tao hiểu tại sao mày ghét người Việt. Tao hứa sẽ tìm hiểu thêm về lịch sử. Nhưng đó là chuyện của chính phủ với nhau, xin mày đừng lẫn lộn với chuyện của dân đen.

Tôi cung cấp thêm về sự kiện người Cam bài Việt! Tôi chọn 4 nhóm link, để có sự khách quan. Một nhóm của báo Cam, nhóm thứ 2 của báo Việt (hai thứ tiếng của báo Thanh Niên và Dân Trí), hai nhóm còn lại là của phương Tây, và Ả rập — được tôi coi như hãng thông tấn có vai trò làm cân bằng cán cân với phương Tây.
[Báo chính thống của Campuchia]
[Báo Việt Nam]
[Hãng thông tấn Al-Jazeera (Ả rập)]
[Hãng thông tấn Reuter]

Saturday, March 30, 2019

Hồi ký Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu (6 tháng 9 năm 1911 – 16 tháng 12 năm 2010) là nhà hoạt động cách mạng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và nhà giáo Việt Nam.


------
Tôi viết tập “hồi ký” này từ cuối những năm 1970. Viết xong, tôi nhờ anh em ở Long An  ̶  tỉnh nhà ̶đánh máy; ý muốn viết hồi ký để con cháu xem chớ không phải để in ra thành sách, vì trong hồi ký có lắm chuyện “không lấy gì làm hay”, buồn nữa là khác. Nhưng vài ba anh em Long An, không xin phép tôi, tự ý đánh máy thêm mấy bản, chỉ giao lại cho tôi hai bản, họ giữ mấy bản tôi không biết, nhưng tôi được biết họ đã chuyền tay đọc khá rộng. Nhiều bạn bảo tôi cứ phát hành tập hồi ký này đi. Tôi không ưng. Có lý do.

Tôi thấy rằng không ít hồi ký đã được in ấn kể sự việc rất hay mà cũng chen vào một ít điều hoặc tác giả bịa hoặc lúc nghe kể đã thất thiệt. Viết hồi ký trước hết là viết những điều mình mắt thấy tai nghe và tự làm là chính, mà viết về mình thì dễ “chủ quan”: bớt cái dở thêm cái hay là điều khó tránh khỏi; tôi ngập ngừng khi định viết hồi ký là vì vậy. Nhưng có một số việc, nếu mình không kể lại thì không ai biết, không ai nhớ, không ai viết, không ai làm sáng tỏ cho mình bằng mình. Thành ra viết hồi ký vừa là đóng góp sử liệu vừa là yên ủi mình.

Trong lịch sử dù là lịch sử của một khoảng đời ngắn ngủi, mình chỉ là một tiếng của ngàn trùng ngọn sóng trên biển sôi động: ghi lại một tiếng, thật ra có nghĩa lý gì lớn lắm đâu, có thêm bớt gì lắm đâu? Nhiều lắm thì làm cho một số người mất thì giờ đọc, hay mất tiền mua. “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”; tục ngữ thì như vậy. Song, da, dầu là da cọp, nhiều năm rồi sâu mọt đục cũng hết. Tiếng, trừ ra tiếng của một số ít vĩ nhân, làm sao mà còn mãi với thời gian? Năm trăm năm sau cách mạng tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp. Cho nên, viết hồi ký này, tôi chỉ mong cho cháu một đời sau mình biết được rằng ông nó đã gắng sức làm tròn trách nhiệm ở đời, đã sống có nhân cách. Thế là đủ.

Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm. Tôi viết “Lời nói đầu” này ngày 27 tháng 10 năm 1995, sau khi tôi đọc lại bản hồi ký lần thứ ba.

Trần Văn Giàu

-- Nguồn Hồi ký Trần Văn Giàu.


Phân tích tính pháp lý công hàm của VNDCCH | Từ Đặng Minh Thu

Trích đăng một phần bài viết "Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa" của tác giả Từ Đặng Minh Thu trên Tạp chí Thời Đại:
Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (Lê Trung Hưng)

Những lời tuyên bố trên không có hiệu lực vì trước năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý những đảo này. Lúc đó, những đảo này nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hoà; mà các chính phủ Việt Nam Cộng hoà luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cũng không tuyên bố điều gì có thể làm hại đến chủ quyền này cả. Tác giả Monique Chemillier-Gendreau đã viết như sau:
"Dans ce contexte, les declarations ou prise de position éventuelles des autorités du Nord Vietnam sont sans consequences sur le titre de souveraineté. Il ne s'agit pas du gouvernement territorialement competent à l'égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n'a pas d'autorité…"
(Có thể dịch là: "Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…").
Một lý lẽ thứ hai nữa là đứng trên phương diện thuần pháp lý, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không phải là một quốc gia trong cuộc tranh chấp. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hoà và Philippin. Như vậy, những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp.
Nếu đặt giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thì dựa trên luật quốc tế, những lời tuyên bố đó cũng không có hiệu lực. Tuy nhiên, có tác giả đã nêu thuyết "estoppel" để khẳng định những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam, và Việt Nam bây giờ không có quyền nói ngược lại.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel". Điều 38 Quy chế Toà án Quốc tế không liệt kê những lời tuyên bố đơn phương trong danh sách những nguồn gốc của luật pháp quốc tế. Estoppel là một nguyên tắc theo đó một quốc gia không có quyền nói hoặc hoạt động ngược lại với những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia. Câu tục ngữ thường dùng để định nghĩa nó là "one cannot at the same time blow hot and cold."[72] Nhưng thuyết estoppel không có nghĩa là cứ tuyên bố một điều gì đó thì quốc gia tuyên bố phải bị ràng buộc bởi lời tuyên bố đó.
Thuyết estoppel bắt nguồn từ hệ thống luật quốc nội của Anh, được thâu nhập vào luật quốc tế. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính:
1.- Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách minh bạch (clair et non equivoque).
2.- Quốc gia nại "estoppel" phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh-Mỹ gọi là "reliance".
3.- Quốc gia nại "estoppel" cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.
4.- Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine", bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua", bản án "Ngôi đền Preah Vihear",…
Ngoài ra, nếu lời tuyên bố đơn phương có tính chất một lời hứa, nghĩa là quốc gia tuyên bố mình sẽ làm hoặc không làm một việc gì, thì quốc gia phải thực sự có ý định muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó, thực sự muốn thi hành lời hứa đó.
Thuyết estoppel với những điều kiện trên đã được án lệ quốc tế áp dụng rất nhiều. Trong bản án "Thềm lục địa vùng Biển Bắc" giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Đan Mạch/Hà Lan, Toà án quốc tế đã phán quyết rằng estoppel không áp dụng cho Cộng hòa Liên bang Đức, mặc dù quốc gia này đã có những lời tuyên bố trong quá khứ nhằm công nhận nội dung của Công ước Genève 1958 về thềm lục địa, vì Đan Mạch và Hà Lan đã không bị thiệt hại khi dựa vào những lời tuyên bố đó.
Trong bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua" giữa Nicaragua và Mỹ, Toà đã phán quyết như sau: "… 'Estoppel' có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại".
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2/ và 3/ đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó. Lúc đó hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa rất thân thiện, "vừa là đồng chí, vừa là anh em". Những lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn do tình hữu nghị Hoa-Việt. Hơn nữa, lời văn của bản tuyên bố không hề nói rõ ràng minh bạch là công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa. Bức công hàm chỉ nói: "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy (quyết định ấn định lãnh hải 12 dặm của Trung Quốc), và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…".
Lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có thể hiểu là một lời hứa đơn phương, một lời tuyên bố ý định sẽ làm một việc gì (declaration d'intention). Thật vậy, đây là một lời hứa sẽ tôn trọng quyết định của Trung Quốc trong việc ấn định lãnh hải của Trung Quốc, và một lời hứa sẽ ra lệnh cho cơ quan công quyền của mình tôn trọng lãnh hải đó của Trung Quốc.
Một lời hứa thì lại càng khó ràng buộc quốc gia đã hứa. Toà án Quốc tế đã ra thêm một điều kiện nữa để ràng buộc một lời hứa: đó là ý chí thực sự của một quốc gia đã hứa. Nghĩa là quốc gia đó có thực sự muốn bị ràng buộc bởi lời hứa của mình hay không. Để xác định yếu tố "ý chí" (intention de se lier), Toà xét tất cả những dữ kiện xung quanh lời tuyên bố đó, xem nó đã được phát biểu trong bối cảnh, trong những điều kiện nào (circonstances). Hơn nữa, nếu thấy quốc gia đó có thể tự ràng buộc mình bằng cách ký thoả ước với quốc gia kia, thì lời tuyên bố đó là thừa, và Toà sẽ kết luận là quốc gia phát biểu không thực tình có ý muốn bị ràng buộc khi phát biểu lời tuyên bố đó. Vì vậy, lời tuyên bố đó không có tính chất ràng buộc.
Trong bản án "Những cuộc thí nghiệm nguyên tử" giữa Úc/Tân Tây Lan và Pháp, Pháp đã tuyên bố là sẽ ngừng thí nghiệm nguyên tử. Toà án đã phán quyết rằng Pháp bị ràng buộc bởi lời hứa vì Pháp thực sự có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó.
Trong trường hợp Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi tuyên bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, không hề có ý định nói đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Ông đã phát biểu những lời tuyên bố trên trong tình trạng khẩn trương, chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe doạ Trung Quốc. Ông đã phải lập tức lên tiếng để ủng hộ Trung Quốc nhằm gây một lực lượng chống đối lại với mối đe doạ của Mỹ.
Lời tuyên bố năm 1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như vậy. Động lực của lời tuyên bố đó là tình trạng khẩn trương, nguy ngập ở Việt Nam. Đây là những lời tuyên bố có tính chính trị, chứ không phải pháp lý.
Nếu xét yếu tố liên tục và trường kỳ thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng không hội đủ tiêu chuẩn này. Estoppel chỉ đặt ra nếu chấp nhận giả thuyết Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một; và cả Pháp trong thời kỳ thuộc địa, và Việt Nam Cộng hoà trước năm 1975 cũng là một đối với Việt Nam hiện thời. Nếu xem như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia riêng biệt với Việt Nam hiện thời, thì estoppel không áp dụng, vì như đã nói ở trên, lời tuyên bố sẽ được xem như lời tuyên bố của một quốc gia không có quyền kiểm soát trên lãnh thổ tranh chấp. Như vậy, nếu xem Việt Nam nói chung như một chủ thể duy nhất từ xưa đến nay, thì ba lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ là một sự phát biểu có ý nghĩa chính trị trong đoản kỳ thời chiến, so với lập trường và thái độ của Việt Nam nói chung từ thế kỷ XVII đến nay.
Tóm lại, những lời tuyên bố mà chúng ta đang phân tích thiếu nhiều yếu tố để có thể áp dụng thuyết estoppel. Yếu tố "reliance" (tức là quốc gia kia có dựa vào lời tuyên bố của quốc gia này mà bị thiệt hại), và yếu tố "ý chí" (tức là quốc gia phát biểu lời hứa có ý muốn bị ràng buộc bởi lời hứa đó) rất quan trọng. Không có "reliance" để giới hạn sự áp dụng của estoppel thì các quốc gia sẽ bị cản trở trong việc hoạch định chính sách ngoại giao. Các quốc gia sẽ phải tự ép buộc cố thủ trong những chính sách ngoại giao lỗi thời.[82] Khi điều kiện chung quanh thay đổi, chính sách ngoại giao của quốc gia kia thay đổi, thì chính sách ngoại giao của quốc gia này cũng phải thay đổi. Các quốc gia đổi bạn thành thù và đổi thù thành bạn là chuyện thường.
Còn những lời hứa đơn phương trong đó quốc gia không thật tình có ý muốn bị ràng buộc, thì nó chẳng khác gì những lời hứa vô tội vạ, những lời hứa suông của các chính khách, các ứng cử viên trong cuộc tranh cử. Trong môi trường quốc tế, nguyên tắc "chủ quyền quốc gia" (état souverain) rất quan trọng. Ngoại trừ tục lệ quốc tế và những điều luật của Jus Congens, không có luật nào ràng buộc quốc gia ngoài ý muốn của mình, khi mà quốc gia này không gây thiệt hại cho quốc gia nào khác. Vì vậy ý chí của quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định tính chất ràng buộc của một lời hứa đơn phương.
-- Bài phân tích gốc Chủ Quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa - Từ Đặng Minh Thu.

Friday, February 22, 2019

Sách Hòa bình phát triển hợp tác | Lý Bằng ngoại sự nhật ký

Ngày 4/1/2008, trang mạng Nhân dân Bắc Kinh giới thiệu tác phẩm mới của Lý Bằng «Hòa bình phát triển hợp tác - Lý Bằng ngoại sự nhật ký», sách do Nhà xuất bản Tân Hoa phát hành trên cả nước tại các tiệm sách Tân Hoa. Quyển sách này thuật lại toàn bộ quá trình tham gia công tác đối ngoại của Lý Bằng với vai trò Phó thủ tướng, thay mặt Thủ tướng, Thủ tướng,... trong gần 20 năm kể từ tháng 6/1983 đến tháng 3/2003. Cuốn sách có nội dung phong phú, là tư liệu lịch sử và văn hiến có giá trị. Sách chia hai quyển Thượng Hạ gần 1,000 chương, trong sách thu nhập hơn 230 bức ảnh chụp, tuyệt đại đa số là lần đầu công khai phát biểu.




Quyển sách không tận lực công bố ra ánh sáng cái gọi là "Nội tình", "Bí văn", nhưng cũng không tránh né những vấn đề nhạy cảm, như liên quan đến "Đài độc"(台独), "Tàng độc"(藏独), "Đông đột"(东突), các loại vấn đề đấu tranh ngoại giao, giải quyết tranh chấp biên giới, xử lý sự kiện "Trung Mỹ Nam Hải Chàng Cơ" (中美南海撞机), trong sách đều có ghi lại theo từng mức khác nhau hay có liên quan.

Quyển sách này là cuốn thứ sáu trong bộ sách nhật ký của Lý Bằng đã xuất bản là: [1] Tam Hạp nhật ký, [2] Điện hạt nhân nhật ký, [3] Điện lực nhật ký, [4] Nhân đại nhật ký, [5] Kinh tế nhật ký.

(Lược dịch lời giới thiệu sách Hòa bình phát triển hợp tác tại đây (tiếng Trung))


Trích phần liên quan đến Hội nghị Thành Đô:

[Năm 1986]

Ngày 26 tháng 12, Thứ Sáu, trời âm u, có mưa

Tại Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam [ĐCSVN], Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, thay cho nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời hồi tháng 7.

[Năm 1989]

Ngày 26 tháng 8, Thứ Bảy, trời âm u, có mưa

Hôm nay Việt Nam tuyên bố đã “rút toàn bộ quân đội” từ Campuchia. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề Campuchia, cũng quét sạch trở ngại cho việc bình thường hóa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.

Bước ngoặt trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam — Hội nghị Thành Đô

[Năm 1990]

Ngày 6 tháng 6, Thứ Tư, trời hửng.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước, hai đảng và mong muốn sớm đi thăm Trung Quốc.

Ngày 26 tháng 8, Chủ Nhật, trời âm u có mưa.

Tôi nói với đồng chí Giang Trạch Dân về việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam [ĐCSVN] Nguyễn Văn Linh và những người lãnh đạo chủ yếu phía Việt Nam đến thăm Trung Quốc với tính chất nội bộ, đồng chí Giang Trạch Dân tỏ ý hoàn toàn tán thành.

Ngày 27 tháng 8, Thứ Hai, trời mưa.

Tôi đã báo cáo đồng chí Đặng Tiểu Bình về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến Nguyễn Văn Linh. Xét thấy Á Vận Hội sắp cử hành tại Bắc Kinh, mà lần gặp gỡ này bàn đến việc bình thường hóa quan hệ hai nước Trung-Việt, là chuyện trọng đại, để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm thu xếp tại Thành Đô.

Ngày 30 tháng 8, Thứ Năm, trời hửng.

Việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm với Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, đã gửi lời mời cho phía Việt Nam. Giờ đây hãy xem Việt Nam trả lời thế nào.

Ngày 2 tháng 9, Chủ Nhật, trời hửng.

Ba giờ rưỡi chiều, tôi đáp chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi đi ô tô, sau 20 phút đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chuyên cơ khác đến Thành Đô sau tôi nửa giờ. Buổi tối từ 8 giờ rưỡi đến 11 giờ, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai.

Ngày 3 tháng 9, Thứ Hai, Thành Đô, trời hửng.

Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí tiếp tục nghiên cứu phương châm hội đàm với phía Việt Nam chiều nay.

Buổi chiều khoảng 2 giờ, Tổng Bí thư Trung ương ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn TƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến Nhà khách Kim Ngưu. Giang Trạch Dân và tôi đón họ tại nhà trệt số 1. Nguyễn Văn Linh mặc âu phục màu cà phê, có phong thái học giả. Đỗ Mười còn khỏe mạnh, tóc bạc phơ, mặc âu phục màu lam. Hai người này đều ở độ tuổi 73-74, còn Phạm Văn Đồng hai mắt bị đục thủy tinh thể, thị lực rất kém, mặc bộ đại cán màu lam, giống cán bộ lão thành Trung Quốc.

Buổi chiều, hội đàm bắt đầu, trước tiên Nguyễn Văn Linh phát biểu một bài dài. Tuy đã tỏ ý muốn giải quyết thật nhanh vấn đề Campuchia và nói thành lập Hội đồng Tối cao Campuchia là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, không nên loại bỏ bất cứ bên nào, nhưng lại tỏ ý không muốn can thiệp vào việc nội bộ của Campuchia. Xem ra trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh chỉ muốn tỏ thái độ về nguyên tắc, mà đặt trọng điểm vào mặt bình thường hóa quan hệ Trung-Việt.

Hội đàm kéo dài một mạch đến 8 giờ tối. 8 giờ rưỡi mới bắt đầu tiệc chiêu đãi tối. Trên bàn ăn, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân từng người làm việc với Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười.

Ngày 4 tháng 9, Thứ Ba, trời âm u.

Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lãnh đạo Việt Nam. Đến giờ này, nên nói là các vấn đề hội nghị nêu ra đã đạt được sự đồng thuận tương đối trọn vẹn, quyết định dự thảo biên bản hội nghị.

Hai giờ rưỡi chiều, hai bên Trung Quốc-Việt Nam làm lễ ký biên bản ở nhà trệt số Một nhà khách Kim Ngưu, Tổng Bí thư và Thủ tướng mỗi bên đều ký. Đây là bước ngoặt có tính lịch sử trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Ngay tại lễ ký, đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam câu thơ “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu
 [Tạm dịch: Qua hoạn nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Đây là câu thơ của Lỗ Tấn.[1] Các đồng chí Việt Nam tỏ ý vui mừng với việc tặng thơ này.

4 giờ chiều, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, Khoảng 6 giờ 10 đến nơi.

Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội VII

[Năm 1991]

Ngày 29 tháng 6, Thứ Bảy.

Đại hội VII ĐCSVN bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng là Cố vấn. Tinh thần cơ bản của Đại hội VII ĐCSVN là kiên trì chủ nghĩa xã hội, cải cách kinh tế, chủ trương hữu nghị Việt Nam-Liên Xô, Việt Nam-Trung Quốc. Tinh thần này có lợi cho việc cải thiện quan hệ Trung-Việt.

Ngày 30 tháng 7, Thứ Ba, Bắc Kinh, trời hửng.

Buổi chiều tôi hội kiến với Đại biểu đặc biệt Trung ương ĐCSVN Lê Đức Anh và Hồng Hà. Họ yêu cầu tổ chức cuộc gặp cấp cao Trung-Việt. Tôi nói là để cho nhân dân hai nước có chuẩn bị, để các nước khác trong ASEAN không đến nỗi có lo ngại, Trung Quốc-Việt Nam trước tiên nên tiến hành gặp gỡ cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Ngoại giao. Còn nói về  gặp gỡ cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng trên nguyên tắc không có vấn đề gì. Ngày mai Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ chính thức trả lời họ. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế Trung-Việt, có thể trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, các đơn vị đối tác của hai bên sẽ bàn bạc giải quyết, Trung Quốc đều có thái độ tích cực đối với các vấn đề nối lại thương mại, bưu chính, hàng không, quyết toán ngân hàng, khôi phục giao thông trên bộ.

Thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam

Ngày 5 tháng 11, Thứ Ba, trời hửng.

5 giờ chiều, đồng chí Giang Trạch Dân và tôi làm nghi thức đón Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc tại quảng trường Đông Môn bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân. Tiếp đó chúng tôi hội đàm. Trên vấn đề Đài Loan, Đỗ Mười có thái độ rõ ràng. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, sau khi mối quan hệ hai nước trải qua một khúc quanh co, hôm nay người lãnh đạo hai nước Trung-Việt có thể ngồi với nhau làm cuộc gặp gỡ cấp cao, điều này có ý nghĩa quan trọng. Đây là cuộc gặp kết thúc quá khứ, mở ra tương lai, đánh dấu sự bình thường hóa mối quan hệ hai nước, nó ắt sẽ có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước. Đỗ Mười nói, việc bình thường hóa mối quan hệ Việt-Trung phù hợp nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, cũng có lợi cho hòa bình và ổn định khu vực này và thế giới. Tiếp đó vào tiệc chiêu đãi.

Ngày 6 tháng 11, Thứ Tư, trời hửng.

Buổi chiều, tôi hội đàm với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, không khí hội đàm rất tốt. Trước hết tôi nói, sáng nay Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành cuộc hội đàm rất tốt, hai bên đã gắng sức trao đổi mọi ý kiến. Võ Văn Kiệt có thái độ đúng trên vấn đề Đài Loan. Trong hội đàm, tôi đã nêu ra các vấn đề nợ, biên giới, nạn dân v.v… Hai bên đồng ý sau này sẽ bàn lại. Về việc Việt Nam đề xuất vay tiền cho các dự án mới, tôi nhận lời trước hết sẽ khảo sát các dự án của Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nói hiệp định giải quyết chính trị toàn diện vấn đề Campuchia đã ký tại Paris, việc thi hành hiệp định này còn cần tới sự tiếp tục cố gắng của các bên.

Ngày 7 tháng 11, Thứ Năm, trời hửng.

Buổi chiều, hiệp định thương mại Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc ở biên giới hai nước được ký tại Nhà khách quốc tế ở Điếu Ngư Đài. Lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước dự lễ ký kết. Sau đó tôi và đồng chí Giang Trạch Dân nói lời tạm biệt với Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm Quảng Châu, Thâm Quyến.

-- Nguồn Trích Hòa Bình Phát Triển Hợp Tác (pdf, tiếng Trung Quốc) - Tác giả: Lý Bằng | Biên dịch: Nguyên Hải

Sách Hồi ức và suy nghĩ | Trần Quang Cơ

Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ (pdf) của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003)  chưa được xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác giả cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.

Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé ký 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lý do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông mất ngày 25/06/2015 tại Hà Nội.


Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990). Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn - trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng - cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh - tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)

Trong cuốn hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất quan trọng nói lên sự thật về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng thời về những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 30-04-1975 đến hôm nay, sự kiện bí mật Hội nghị Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một bí mật chưa công bố và được đề cập rất sơ sài của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc.

--- Trích lời giới thiệu của nhà báo Trần Quang Thành.

SGK Địa lý lớp 9 của Hà Nội năm 1974 ghi nhận quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Trung Quốc

Một bằng chứng do Bộ ngoại giao Trung Quốc cung cấp khẳng định sách giáo khoa Địa lý lớp 9 do NXB Giáo dục Hà Nội xuất bản năm 1974 ghi nhận quần đảo Trường sa và Hoàng sa là của Trung Quốc. Trích dẫn trang 4:

"Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn... làm thành một bức <<trường thành>> bảo vệ lục địa Trung quốc (Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc, của Viễn đông và miền Tây Thái bình dương)"
Bìa sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập - NXB Giáo Dục - Hà Nội 1974

Trang 3 sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập

Trang 4 sách Địa lý Lớp chín phổ thông toàn tập
Nguồn: Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China

Thư tán thành bản Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày 04/09/1958

Thư tán thành bản Tuyên bố chủ quyền của nước CHNDTH về hải phận ngày 04/09/1958.

THỦ TƯỚNG PHỦ
NƯỚC VIỆT NAM DÂN-CHỦ CỘNG-HÒA

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.

Hà-nội, ngày 15 tháng 9 năm 1958.
(đã ký và đóng dấu)
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng hòa

Kính gởi:
Đồng chí CHU ÂN LAI
Tổng lý Quốc vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa tại BẮC KINH.

Bảng dịch tiếng Anh

Nguồn: Ministry of Foreign Affairs of the People's Republic of China